Mức sinh trên toàn quốc đang giảm dưới mức sinh thay thế, khi số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 2,11 (năm 2021) xuống 2,01 (năm 2022), 1,96 (năm 2023) và 1,91 (năm 2024) và dự báo sẽ tiếp tục giảm trong những năm tới. Việc giảm xuống dưới mức sinh thay thế (2,1 con) sẽ ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số. Chính vì vậy các ngành chức năng cần có những giải pháp cụ thể, hợp lý, thực tế để sớm ổn định mức sinh.
Gia đình trẻ vui vầy bên con cái - Mô hình cần được khuyến khích trong bối cảnh mức sinh đang giảm. (Ảnh NHƯ Ý)
Từ năm 2006-2021, Việt Nam duy trì được mức sinh thay thế, bảo đảm mức độ gia tăng dân số phù hợp, cơ cấu dân số hợp lý. Quy mô dân số cả nước năm 2023 đạt hơn 104 triệu người.
Đã đến lúc phải kịp thời giải quyết
Theo báo cáo của Bộ Y tế, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, giai đoạn tạo ra lợi thế to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Chất lượng dân số cùng với chỉ số phát triển con người không ngừng tăng; tuổi thọ bình quân ngày càng được nâng cao. Những tiền đề quan trọng này tạo điều kiện chuyển đổi chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Tuy nhiên, với những dự báo và kịch bản mức sinh tiếp tục giảm cho thấy, đến năm 2039 Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động sẽ đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm. Hệ lụy của mức sinh thấp kéo dài sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh già hóa dân số, từ đó tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội.
Trong 20 năm qua, mức sinh ở khu vực thành thị đã giảm xuống dưới mức sinh thay thế, dao động ở mức 1,7-1,8 con/phụ nữ; trong khi mức sinh ở khu vực nông thôn luôn cao hơn mức sinh thay thế, dao động ở mức 2,2-2,3 con/phụ nữ.
Cục trưởng Dân số (Bộ Y tế) Lê Thanh Dũng cho rằng: Việt Nam đang chuyển từ mức sinh cao sang mức sinh thấp; từ mô hình sinh sớm sang sinh muộn; từ cơ cấu dân số trẻ sang dân số già. Hiện nay, việc duy trì ổn định mức sinh bền vững là cực kỳ quan trọng. Khi tuổi thọ tăng, mức sinh giảm, dẫn đến già hóa dân số nhanh. Vì vậy, cần duy trì mức sinh thay thế, giữ vững mức sinh đồng đều giữa các vùng, khu vực; không để mức sinh xuống quá thấp, nhất là ở các thành phố lớn, vùng kinh tế trọng điểm.
Mức sinh thấp hiện tập trung tại 21 tỉnh, thành phố (chiếm 39% dân số cả nước), thuộc các vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh có mức sinh thấp nhất cả nước với tổng tỷ suất sinh chỉ đạt 1,39 con/phụ nữ. Trong khi đó, các vùng có mức sinh ổn định hoặc trên mức sinh cao gồm: Trung du và miền núi phía bắc (2,34 con/phụ nữ), Tây Nguyên (2,24 con/phụ nữ).
Bộ Y tế đã trình Chính phủ Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh Dân số năm 2003 nhằm ổn định mức sinh, đồng thời duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước và khắc phục tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng. Dự thảo pháp lệnh quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản; mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, giải pháp này tuy phù hợp với những vùng có mức sinh thấp, nhưng chưa hiệu quả đối với vùng có mức sinh cao và ổn định. Do vậy, cần một giải pháp tổng thể, linh hoạt và mang tính chiến lược để ổn định mức sinh bền vững...
Bên cạnh yếu tố pháp lý, các vấn đề về kinh tế, nhà ở, chi phí sinh hoạt gia đình, chi phí nuôi dạy con… khiến nhiều gia đình ngại sinh thêm con. Những khó khăn, trở ngại về vật chất, thời gian dành cho gia đình, tâm lý sợ "thiếu nhiều thứ"... đang ảnh hưởng tới quyết định sinh con của nhiều gia đình trẻ.
Chị Nguyễn Ngọc Liên, 28 tuổi (quê Thái Bình), công nhân một nhà máy may tại khu công nghiệp Bình Dương cho biết, thu nhập mỗi tháng của hai vợ chồng là 14 triệu đồng, sau khi trừ tiền thuê nhà còn 10 triệu đồng chi tiêu cho cả gia đình ba người. Con gái chị đã được 5 tuổi, gia đình nội, ngoại khuyến khích đẻ thêm nhưng với thu nhập như hiện tại, nuôi một con còn khó khăn, cho nên anh chị chưa nghĩ đến sinh con thứ hai.
Tương tự, vợ chồng chị Trần Thị Nga 30 tuổi (quê Thanh Hóa), dù tốt nghiệp đại học, xong hai vợ chồng chỉ là nhân viên bán hàng cho một hệ thống siêu thị. Cậu con trai cũng vào lớp 1 nhưng với tổng thu nhập 14-15 triệu đồng/tháng, gia đình chị chỉ đủ trả tiền thuê nhà và chi phí sinh hoạt thiết yếu. Khi con ốm, chị phải vay mượn đồng nghiệp hoặc tạm ứng lương. Khi được hỏi về việc sinh thêm con, chị Nga trăn trở: "Với thu nhập hiện tại, tháng nào cũng không để dành được, nếu sinh thêm, làm sao đủ khả năng chi trả?".
Cần có chính sách mang tính ổn định, bền vững
Để việc trao quyền chủ động sinh con cho các cặp vợ chồng, cá nhân thật sự hiệu quả, cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: Hỗ trợ kinh tế, cải thiện phúc lợi xã hội, hỗ trợ phụ nữ cân bằng giữa công việc và gia đình… Việc thay đổi quy định mà không có chính sách cụ thể đi kèm, khó có thể đạt được mục tiêu tăng tỷ lệ sinh như kỳ vọng.
Trong dài hạn, cần có chính sách cụ thể, hài hòa nhằm cân bằng mức sinh giữa các vùng, miền. Có ý kiến cho rằng, một chính sách áp dụng cho các vùng khác nhau không chỉ không hiệu quả, mà còn có thể gia tăng chênh lệch dân số giữa các vùng, miền.
Theo GS, TS Nguyễn Đình Cử (Chủ tịch Hội đồng khoa học-Viện Nghiên cứu Dân số, Gia đình và Trẻ em), mô hình dân số Việt Nam đang có nghịch lý khi mức sinh ở miền núi cao hơn đồng bằng, nông thôn cao hơn thành thị, và nhóm có hoàn cảnh khó khăn thường sinh nhiều con hơn so với các nhóm còn lại. Do vậy, cần có chính sách cụ thể cho từng vùng. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ phúc lợi xã hội, nếu không việc khuyến khích sinh thêm con sẽ tạo thêm áp lực kinh tế cho các gia đình và xã hội.
Theo "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các địa phương cần bảo đảm mức sinh giữa các vùng, miền để đạt mức sinh thay thế. Mục tiêu cụ thể là tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp; giảm 10% ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao; và duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế.
Như vậy, các địa phương có mức sinh cao, cần tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên; hỗ trợ người dân thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
Để giải quyết vấn đề này, đạt được sự hài hòa, cân đối về quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số giữa các vùng, miền, cần kết hợp nhiều chính sách hỗ trợ kinh tế-xã hội, thay đổi tư duy và tạo môi trường thuận lợi.
Theo Thanh Mai/ Nhân Dân
https://nhandan.vn/giai-phap-tong-the-ben-vung-de-on-dinh-muc-sinh-post866308.html